marque

Mừng gặp bạn trong ngày hội ngộ 3 tháng 8 2024. Hẹn bạn trong ngày hội ngộ lần sau.

Thứ Sáu, 19 tháng 8, 2011

Nhân đi thăm Tích Lan, nghĩ suy về Colombo Plan

Không biết có nhiều người trong chúng ta (những cựu du học sinh học bổng Colombo Plan) để ý tìm hiểu về Kế hoạch Colombo, Học bổng Colombo không? Thú thật, trong 4 năm nhận học bổng này, tôi chỉ biết là của chính phủ Canada, cấp cho 150 đô mỗi tháng, một số tiền khá rộng rãi đối với một sinh viên thời bấy giờ, nghĩa là vào những năm 1964-1968. Hàng năm chúng tôi còn được thêm tiền mua áo mùa đông. Rồi hơn 40 năm tiếp theo, gần như tôi cũng chẳng bao giờ nghĩ đến Colombo Plan nữa… Cho đến khi tôi đặt chân xuống thành phố mang tên Colombo của Sri Lanca, tự nhiên tôi giật mình liên tưởng đến cái tên học bổng mà nhờ đó mình đi ra nước ngoài và học suốt cho đến khi tốt nghiệp …

Chuyến đi hành hương Tích Lan

Vâng, tôi đến thành phố Colombo là đi theo vị thầy của tôi, một vị hòa thượng người Tích Lan, về thăm đất nước của ngài. Thầy Upatissa, sau nhiều năm đóng góp cho Phật Giáo của nước Sri Lanka, Ngài quyết định đi ra nước ngoài, tìm một nơi yên tĩnh để ẩn tu. Ngài đến tá túc ở thiền viện Bát Nhã, thành phố Montréal. Và thế đã hơn 10 năm rồi, chúng tôi quen biết Ngài, học với Ngài, về giáo lý, về pháp hành, về đời sống của những đệ tử Phật… Vợ tôi thường phiên dịch cho Ngài, khi Ngài giảng pháp bằng tiếng Anh, cho đệ tử người Việt. Từ vài năm nay, Ngài thường khuyến khích chúng tôi đi thăm Tích Lan. Nhưng vì bận bịu và có nhiều chuyến đi khác, làm chúng tôi cứ trì hoãn mãi. Cho đến năm nay, Ngài khuyên chúng tôi một lần nữa hãy cố gắng đi, dự lễ Vesak lần thứ 2600 (Phật Giáo Bắc Tông gọi là lễ Phật Đản; Nam Tông gọi là lễ Tam Hợp hay Vesak, vì đó là ngày Bồ tát đản sinh, bồ tát thành đạo và Phật nhập Niết-bàn đều cùng một ngày là rằm tháng Tư  ÂL). Thế là chúng tôi có đủ cơ duyên để khăn gói theo Ngài đến thăm Tích Lan.



  Về thăm cố đô Polonnaruwa



Chuyến đi của chúng tôi kéo dài đúng 2 tuần. Một ngày sau khi đến Colombo, chúng tôi bắt đầu cuộc hành trình đi về hướng Bắc, thăm các cố đô và di tích Phật giáo lớn, là Anarudhapura (nơi Phật giáo truyền đến Tích Lan, nơi còn rất nhiều di tích xưa đến hơn 2500 năm, với các cổ tháp khổng lồ như những kim tự tháp của Ai Cập), Polonnaruwa (nơi có nhiều quần thể di tích lớn, với nhiều pho tượng Phật cực đẹp, tu viện, đền vua…), hang động Dambulla (thuộc loại đẹp nhất thế giới với hàng loạt các tượng Phật cổ và tranh vẻ từ nhiều thế kỷ trước), rồi Kandy (thủ đô cuối cùng của vương quốc Tích Lan, xinh đẹp như Đà Lạt của Việt Nam và nơi có chùa thờ xá lợi răng Phật rất nổi tiếng).


Sau 2 ngày, chúng tôi lại quay về Colombo. Thầy tôi thì cùng chư tăng lãnh đạo ở chùa Sambodhi chủ trì, thuyết pháp và cử hành những buổi lễ của ngày Vesak trọng đại. Còn chúng tôi thì đi xem thành phố đang tưng bùng vào lễ, dự nhiều buổi lễ, buổi dâng cúng, thuyết giảng ở nhiều chùa. Và tối ngày 18/5  (rằm tháng Tư Âm Lịch, năm thứ 2600 ngày đức Phật thành đạo) là dự buổi diễu hành lộng lẫy, nguy nga kéo dài gần 2 giờ đồng hồ.



Sau lễ, chúng tôi tiếp tục đi theo vòng biển phía Tây Nam, qua các khu vực Kolutara, Matara, Dickwella…Rồi lên Kataragama, vùng rất “linh thiêng”; rồi theo ngã Ratnapura (thành phố có nhiều đá quý), quay về Colombo. Lưu lại ở thành phố này, chúng tôi lại đi thăm các chùa, thiền viện, bạn bè, thân chủ của thầy tôi, trong Thành phố và ở những vùng xung quanh.


Thế là, trong toàn bộ chuyến đi 2 tuần, chúng tôi dừng chân khoảng gần 10 ngày ở thành phố này. Những ngày đó chúng tôi nghĩ ngơi trong một ngôi nhà rất đẹp của một để tử của thầy tôi, ở vùng Kaduwela, ngoại ô Colombo.


Thành phố Colombo

Colombo là thành phố lớn nhất của Tích Lan. Từ 2000 năm trước, nơi này đã là một thương cảng quan trọng, nối liền 2 vùng thế giới Đông và Tây.  Khi Bồ Đào Nha chiếm đống nước này thì đặt tên cho nó là Colombo. Có khá nhiều giả thuyết về nguồn gốc của tên gọi này. Tên gọi bằng tiếng Sinhalese cổ xưa, là Kolon-Thota, có nghĩa là “Hải cảng bên bờ sông“ (sông Kelani). Cũng có một tên cổ khác là Kola-Amba-Thota, có nghĩa là “Hải cảng nằm cạnh rừng xoài”. Người Á Rập thì gọi là Kolambu, người Tàu là Kao-lanpu. Còn có giả thuyết khác cho rằng người Bồ Đào Nha đặt cái tên Colombo để tưởng nhớ nhà thám hiểm lừng danh của họ là Christopher Columbus.  



                                                                            
 Dấu vết thời thuộc địa


                                                                            
 Phố xá khu trung tâm



                                                                     
Phố xá phần lớn là thấp và hẹp

Tiếp chân người Bô Đào Nha, người Hòa Lan đến thôn tính nước này, rồi cuối cùng là người Anh. Từ khi người Anh cai trị, thành phố Colombo phát triển nhanh hơn, trở thành thủ đô của cả nước. Sau độc lập (năm 1948), Colombo tiếp tục là thủ phủ. Cho đến năm 1982, nhà nước Tích Lan quyết định dời thủ đô hành chính về thành phố rất nhỏ Jayawardenapura-kotte, nằm sát phía Nam của Colombo. Dù chính thức mất vị trí thủ phủ, nhưng phần lớn dân chúng trong và ngoài nước, người ta vẫn “nhầm lẫn” Colombo là thủ đô.



Đó là thành phố rộng nhất, đông dân nhất, là trung tâm thương mại và văn hóa lớn nhất của Tích Lan. Nội thành có khoảng 800 000 dân. Tính chung cả nội và ngoại thành thì có đến 6 triệu dân, nghĩa là thuộc loại thành phố lớn của châu Á và của thế giới.

Kiến trúc của Colombo ngày nay còn nhiều dấu vết của các nước đế quốc Đào Nha, Hòa Lan và Anh. Thành phố tương đối đẹp, dễ thương, có bờ biển dài, vườn thú, vườn cây cảnh nổi tiếng. Nói chung có nhiều khu xinh đẹp để thưởng ngoạn. Nhiều đường xá, tiệm tùng thường viết bằng chữ La-mã và là tiếng Anh, khiến du khách cảm thấy gần gũi, dễ chịu. Nhưng với tôi,  điều quan trọng hơn, chính là Colombo còn có nhiều cơ sở Phật Giáo. Đó là viện bảo tàng quốc gia với rất nhiều di tích Phật giáo quí báu (không kém gì vời viện bảo tàng quốc gia ở Bangkok mà chúng tôi rất ngưởng mộ). Đó là trung tâm văn hóa, nhà sách Phật giáo  (Buddhist Cultural Centre) mà chúng tôi cho là đầy đủ nhất, tốt nhất và rẻ nhất thế giới. Đó là nhiều chùa, nhiều “thánh tích”  rất nguy nga, như chùa Kelaniya, chùa Gangarama, chùa Bellanwela. Đó là những thiền viện, những trường đại học Phật Giáo …



So với các thủ đô châu Á đã hay đang vươn lên như Kuala Lumpur, Bangkok, Hà Nội, Sài Gòn…thì Colombo không có nhiều khu nhà chọc trời, hay những khu phố xá tân kỳ mỹ lệ.  Hầu hết  phố xá của Colombo là những khu phố nhỏ, thường chỉ một vài tầng lầu. Đường xá hầu hết rất nhỏ; phần lớn là đường có 1, 2 lằn xe. Đường xuyên quốc gia cũng chỉ rộng có bấy nhiêu. Hiện nay, một xa lộ có 6-8 lằn xe đầu tiên đang được xây dựng, nối Colombo với thành phố Matara ở phía Nam, dài khoảng hơn 100 Km.


Phát triển không ồ ạt


Nước Tích Lan được độc lập từ năm 1948, trở thành một trong những thành viên chủ chốt của khối Không Liên Kết, mở cửa với các nước khác. Độc lập, nhưng Tích Lan cũng chịu cuộc nội chiến dằng day với nhóm Tamil Tigers ly khai. Cho đến năm 2009, khi nhóm Tamil ly khai bi dẹp, thì Sri Lanka mới thật sự yên ổn.  Hơn 50 năm sau ngày độc lập, Tích Lan có vóc dáng của một nước châu Á còn chưa giàu, chưa mở mang nhiều, chưa vươn vai mạnh mẽ, chưa  “bùng nổ” dữ dội như những con rồng châu Á khác.


Ở khắp thành phố Colombo, người ta không thấy những bản hiệu của các tập đoàn kinh tế lớn, có tính chất chế ngự như Sony, Hitachi, Toyota, Walmart, Coca, Coco Chanel, Calvin Klein, Grand Royal …  Ngược lại, người ta thấy có nhiều biển quảng cáo quốc nội. Và trong những ngày tháng Năm này (xung quanh lễ Vesak) người ta thấy nhiều biểu ngữ có hình tổng thống chụp chung với các nhà sư, hình những Pandola khổng lồ (một loại biển quảng cáo) về đời đức Phật, với nhiều màu sắc rực rỡ và nhiều ánh đèn vào ban đêm. Chứ không có nhiều bản quảng cáo sản phẩm TV, nước hoa, rượu, quần áo … thường thấy.


Nếu như ở Bangkok, ở Sài Gòn, thậm chí ở Yangon, đi giữa trung tâm thành phố, người ta có thể choáng ngộp với các cửa hàng  TV, tủ lạnh, cell phone,  máy ảnh số, dịch vụ  internet… thì ở Colombo ít có các cảnh tượng đó. Chạy quanh thành phố nhiều ngày, chúng tôi chỉ thấy vài quán  cà phê internet. Dịch vụ  internet đã hiện diện, như ở ngôi nhà chúng tôi tá túc, cũng có dùng internet Wifi, nhưng cài đặt thì khó khăn và sử dụng thì chậm chạp. Nhiều người cũng sử dụng cell phone, nhưng nó chưa trở thành “vật bất ly thân” của thế hệ trẻ. Con cái phải học đến cấp nào mới được sử dụng.


Colombo, cũng như nhiều thành phố khác mà chúng tôi đã đi qua, có rất ít các tiệm ăn, không hay rất ít có các quán cốc bên lề đường, như chúng ta có thể thấy ở hầu hết các nước châu Á. Rất ít quán thịt, quán bia, quán rượu. Không thấy các bar dancing (trừ trong khách sạn), không có quảng cáo thuốc lá, quảng cáo bia… Mà ngược lại có nhiều quán trái cây, rau cải. Bửa ăn của họ phần lớn là rau cải, nhiều loại cà-ri, thỉnh thoảng một ít cá, một ít thịt gà. Nếu cố gắng một chút để làm quen, sẽ thấy dễ ăn, ngon miệng, tinh khiết và dễ tiêu hóa.


Xe cộ có đủ loại, nhưng chưa quá nhiều để gây cảnh kẹt xe hàng giờ như ở Sài Gòn, Bangkok. Họ còn dùng nhiều xe ba bánh “tuk tuk” của Ấn Độ, nhưng không có cảnh xe buýt đầy người, ở trên mui hay đứng vịnh ở phái sau xe, như ở Cam Bốt hay bên Miến Điện.


Đời sống của người Tích Lan chưa thể gọi là sung túc, GDP bình quân của họ là khoảng 5200 USD (so với 2900 của Việt Nam). Ít thấy sự khác biệt quá lớn giữa giàu và nghèo, thành thị và nông thôn. Chúng tôi đã đi qua nhiều vùng nông thôn, đã vào nhiều nhà riêng ở miền quê và ngạc nhiên thấy rằng thôn làng được tổ chức một cách rất đàng hoàng, cơ cấu của chúng không bị phá hủy nhanh chóng như ở Việt Nam. Vẫn còn những đường đi sạch sẽ, dễ thương, những vườn dừa và  nhiều loại cây trái khác (tuy không nhiều loại như ở Việt Nam), đồng ruộng trồng lúa, trồng rau, dù không to.


Những khu di tích, chùa chiền, cây xanh, thiên nhiên, muôn thú được chăm sóc, bảo quản rất tốt. Vào những buổi chiều trên đường xe chạy, người ta dễ thấy trên những con đường xuyên qua những khu rừng (như từ Kataragama trở về Colombo), những nhóm, những đàn voi rừng, đứng chờ bên vệ đường (chờ những người bán hàng phía bên kia đường có thể cho chúng vài món ăn?), bên trong hàng rào giây điện.


Trong nhiều thành phố và nông thôn đã đi qua, rất ít thấy bóng dáng của cảnh nghèo khổ quá đáng, không thấy người ăn xin, người nằm ngủ bên lề đường. Nhà cửa ở nông thôn thường rộng rãi và có khá đủ tiện nghi không khác bao nhiêu so với thành thị: mái ngói, sàn gạch bông, toilette kiểu Mỹ…


Từ sự quan sát về đời sống ở Tích Lan, chúng tôi có suy nghĩ rằng, mặc dù Tích Lan mở cửa với các nước, nhưng họ không chạy theo phương Tây. Tích Lan phát triển chầm chậm, vừa mở cửa, vừa giữ gìn nề nếp, văn hóa, tính chất riêng biệt của nước mình. Họ không còn quá nghèo (như Miến Điện, Lào, Ấn Độ), nhưng chưa đủ giàu (như Mã Lai, Thái Lan); có thể chậm trở thành những con rồng, con hổ, nhưng dường như họ phát triển một cách lành mạnh, từng bước.


Đạo Phật: quốc giáo


                                                                 
Chùa tháp ở cố đô Anarudhapura


                                                             
Chùa tháp cổ Jetavana to như tháp Ai Cập

 Nước Tích Lan từ lâu được biết là một nước thấm nhuần Phật Giáo, là cái nôi có Phật Giáo Nam Tông. Từ nhiều thế kỷ  trước Công Nguyên, Phật Giáo được truyền từ Ấn Độ sang đây.


 Khoảng 400 năm sau khi Đức Phật tịch diệt, Phật giáo ở Ấn Độ bị phân tán thành nhiều tông phái. Trong khi Phật giáo “canh tân”, tức Phật Giáo Đại Thừa  phát triển với nhiều nhân tố mới; thì Phật Giáo nguyên gốc (Nguyên Thủy) thụt lùi dần, rồi suy tàn ở Ấn Độ.



                                                              
Phật tử mặc quần áo trắng đi dự lễ chùa

Cũng trong thời gian đó, Phật Giáo nguyên gốc khi được truyền sang Tích Lan thì tiếp tục được kiện toàn, được bổ sung và phát triển. Kinh kệ được kết tập, được viết thành chữ trên lá cây. Để rồi sau này lại truyền đến các nơi khác, các nước khác, thành Phật Giáo Nguyên Thủy, hay Phật Giáo (có gốc) Nam Tông.



                                                                     
Những Pandola về đời đức Phật

Ngày nay, dấu hiệu của đạo Phật còn hiện diện ở mọi nơi: nhiều di tích cổ xưa, to lớn : ở các cố đô Anarudhapura, Polonnaruwa, Kandy… ở vùng Colombo, Matara, Dickwella, Kataragama…Hiện nay còn khỏang 10 000 chùa chiền,  trong đó nhiều chùa, tháp đẹp đẻ và nguy nga; Nhiều là pho tượng Phật cổ kính, khá nguyên vẹn, quí báu; rồi cũng có hành loạt công trình, tranh, tượng… mới xây sau này. Ở trong các chùa, tu viện…, trên đỉnh đồi, trên núi cao, hay trong nhưng tháp nhỏ trang nghiêm ở nhiều gốc phố.



Vào một ngồi chùa, ngoài các tượng Phật to và đẹp, người ta còn được thưởng ngoạn những tranh, tượng minh họa, giống như xem những “quyển sách” Phật Giáo nhiều màu sắc. Có một số ngôi chùa (như Kelaniya, Bellanwila… ) có nhiều  tranh, tượng mà quy mô và mức độ mỹ thuật của chúng làm người ta dễ liên tưởng, so sánh với những tác phẩm tôn giáo của các danh họa phương Tây như Michelangelo hay Raphael. Nhưng ở đây những tác giả của chúng thường là ẩn danh.


Rất tiếc là bên ngoài Tích Lan, những thắng tích Phật giáo kỳ vĩ, nguy nga còn rất ít biết đến, và ít có sách vở giới thiệu. Và dù là một nước có nhiều phong cảnh đẹp, những khu rừng “nguyên sinh” khá đa dạng và nhiều di sản văn hóa được thế giới công nhận (UNESCO World Heritage), số lượng du khách còn khiêm tốn, nhất là trong những năm trước đây, khi còn có du kích Tamil Tigers.


Đạo Phật còn hiện hữu rõ ràng trong nếp sống của người dân. Dân chúng rất kính trọng, tôn sùng các vị tỳ kheo. Chùa chiền thường là trung tâm sinh hoạt của công đồng. Vào các ngày lễ Bố Tát (4 ngày trong mỗi tháng), Phật tử, cả nam lẫn nữ, cả già lẫn trẻ, mặc áo trắng đi lễ chùa, giữ 8 giới, nghe thuyết pháp, cúng dường. Cuối tuần thường có các lớp giảng cho trẻ em hay các buổi hành thiền. Thỉnh thoảng người dân thỉnh sư về nhà “trai tăng “ (mời dùng cơm) với đầy đủ nghi lễ có từ hàng nghìn năm, như lấy nước rửa chân cho sư, trải khăng trắng trên ghế cho sư ngồi, chủ nhà ngồi dưới sàn…. Trẻ em biết, nhớ những lời dạy của Đức Phật, thuộc lòng nhiều bài kinh tụng tiếng Pali, biết rõ những câu chuyện Tiền Thân … Con cái đánh lễ cha mẹ khi đi ra khỏi nhà, hay khi trở về nhà; người trẻ đánh lễ những khách lớn tuổi đến nhà, hay khi từ biệt.  


                                                                       
 Chùa Sambodhi ở Colombo

Hơn nữa, từ khi ngài Mehinda Rajapaksa lên làm tổng thống, Đạo Phật được phục hồi lại như là một quốc giáo. Trong dịp lễ Vesak 2600, Ngài tổng thống cùng với Giáo Hội Phật Giáo cho xây viện bảo tàng  chuyên về Phật Giáo đầu tiên trên thế giới ở cố đô Kandy  (mặc dù ở Colombo đã có một viện bảo tàng quốc gia rất tốt). Cho sửa sang hàng loạt chùa chiền, tượng đài; mở thêm trung tâm thông tin Phật Giáo, đào tạo thêm đội ngủ tăng, ni... Đối với một số chùa cần nhân sự trợ giúp, Ngài Tổng thống cử nhiều nhân viên nhà nước đến chùa, không phải để kiểm soát (như ở Miến Điện), mà để làm các việc của người cư sĩ hộ trì Tam Bảo, phụ giúp các công việc như bếp núc của chùa, đưa rước các chư tăng.



                                                                   
Vesak 2600: Diễn hành ban đêm ở Colombo
                                                             
Vesak ở thành phố nhỏ Dickwella

Trong dịp sắp đến lễ Vesak là ở khắp mọi nơi, từ thành phố đến các ngõ ngách nông thôn, đến từng gia đình đều được trang hoàng rất đẹp đẻ: đèn lồng, cờ nhiều màu…. Ơ Tích Lan, ngày Vesak không phải chỉ được cử hành một cách long trọng bậc nhất trên thế giới mà còn là ngày lễ quan trọng nhất trong năm của cả nước, với nhiều sinh hoạt, nhiều cuộc diễu hành…Chúng tôi đã dự buổi lễ này tại “thủ đô” Colombo, và một cuộc diễu hành tại thành phố nhỏ ở phía Nam là Dickwella. Thật chưa thấy nơi nào người có những lễ hội Phật Giáo nhiều màu sắc như vậy. Ở đây có sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống Phật Giáo (cảnh bầy voi cổng xá lợi Phật đi qua các phố, những hình ảnh, truyện tích Phật Giáo) và những sinh hoạt văn hóa, âm nhạc, nhảy múa, diễn kịch…


Colombo Plan

Một hôm, sau lễ Vesak, trên đường đi về chùa Sambodhi, xe đi qua một khu sang trọng, tôi chợt thấy mấy dòng chữ Colombo Plan to, trên bức tường trước một ngôi biệt thự lớn. Tôi giật mình, nhưng vì cùng đi trên xe với thầy tôi, tôi không dám bảo xe dừng lại. Ngày hôm sau, tôi nhờ ông tài xế tìm lại ngôi nhà hôm qua. Cuộc tìm kiếm không khó khăn lắm, vì ngôi nhà này nằm trong khu vực xung quanh đại lộ lớn Bauddhaloka (dịch nghĩa là Ánh Sáng Phật Giáo), nằm trên đường thẳng gốc với con đường Gregory Road chạy qua chùa Sambodhi.  Đó là ngôi nhà số 31, trên đường Wijerama Mawatha. Đây là một ngôi biệt thự rộng, xinh đẹp, có treo nhiều cờ các nước. Hàng chữ Colombo Plan nằm trên bức tường rào, bên cạnh có phù hiệu (logo) hình bánh xe và chiếc đèn dầu, với các dòng chữ: “Planning Prosperity Together” (Cùng nhau quy hoạch sự thịnh vương). Trên chiếc cổng hé mở, tấm biển  ghi giờ mở cửa của “thư viện” ở bên trong.  Ngôi biệt thự này chính là trụ sở của tổ chức Colombo Plan.



Sau này được biết thêm đây là trụ sở mới, chứ trước kia, trụ sở này nằm trong tòa nhà thuộc Bộ Ngoại Giao của Tích Lan.


                                                                 
Trụ sở Colombo Plan và cờ các nước thành viên
                                                     
Lá cờ, phù hiệu của Colombo Plan
Cùng hôm ấy, khi về nhà, tôi lật tập sách Atlas của cậu con trai người chủ nhà, trong đó có phần nói về Colombo Plan…Đây là Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển xã hội của Châu Á Thái Bình Dương (Colombo Plan for Cooperative Economic and Social Development in Asia and the Pacific) được thành lập năm 1950, tại thủ đô Colombo. Thành viên sáng lập là Tích Lan, Anh, Úc, Tân Tây Lan, Canađa, Ấn Độ, Pakistan. Tất cả 7 nước đều thuộc Công Đồng Thịnh Vượng Chung (Commonwealth); bốn nước lớn là những nước đóng góp tiền, phương tiện; ba nước nhỏ là những nước được viện trợ; nhưng các nước đều ngang hàng với nhau trên bàn hội nghị. Đây có lẻ là lần đầu tiên một số nước, trước đây là thuộc địa, ngồi ngang hàng với các nước lớn là “đế quốc” và cùng lập ra một chương trình hợp tác quốc tế1.


Mặc dù các nước thành lập đều là thành viên của khối Commonwealth, nhưng chủ trương của Colombo Plan không chỉ với hạn trong khối này, mà mở rộng cho các nước châu Á và vài nước lớn khác.  Sau khi thành lập, năm 1951 có thêm Mỹ và năm 1954 có thêm Nhật. Đồng thời có nhiều nước khác ở Châu Á cùng tham gia, như Miến Điện, Mã Lai, Thái Lan, Lào, Indonesia … Riêng về Việt Nam, thì nhà nước Việt Nam Cộng Hòa (miền Nam) là thành viên từ năm 1951. Khi tình hình thay đổi, năm 1976 CHXHCN Việt Nam rút khỏi tổ chức này, để rồi đến năm 2004 Việt Nam trở lại làm thành viên.


Theo thời gian, Tổ Chức có nhiều thay đổi. Trước đây cứ 10 năm một lần, đại hội các thành viên quyết định có kéo dài thời gian hiện hữu của Tổ Chức hay không; từ năm 1980 quyết định Tổ Chức sẽ tồn tại không có thời hạn. Thành phần cũng thay đổi, đặc biệt là đối với 2 thành viên chủ chốt lúc đầu là Anh và Canada. Sau nhiều năm đóng góp, hai nước này lần lượt rút khỏi Tổ Chức, nước Anh năm 1991 và Canada năm 1992.

Có thể có nhiều động cơ khác nhau từ các nước thành viên, khi Tổ chức Colombo Plan được thành lập; như viện trợ cho các nước cựu thuộc địa, ngăn ngừa ảnh hưởng của khối cộng sản…. Tuy nhiên, về thực tế ý nghĩa chính yếu chính là những thành viên giàu (như Anh, Canada, Úc, Tân Tân Lan, Mỹ, Nhật…) giúp khoảng 20 thành viên nghèo (như Sri Lanka, Việt Nam, Lào, Miến Điện, Thái Lan…), trên các lãnh vực kinh tế, xã hội…



Tổ chức Colombo Plan có 4 chương trình dài hạn là: 1- Chương trình về tổ chức hành chính và môi trường; 2- Chương trình về phát triển khu vực tư nhân; 3- Chương trình về cố vấn về thuốc (drug); 4- Chương trình về học bổ dài hạn.


Học bổng Colombo mà phần lớn chúng ta nhận được thuộc loại chương trình thứ IV. Thời trước, ở Canada (từ khoảng 1954 đến 1973?) là học bổng 4 năm đại học. Bây giờ, Tổ Chức đó cấp học bổng sau đại học cho mấy nước thành viên đang phát triển, đi học ở một số nước.



Tem Canada kỷ niệm 10 năm Colombo Plan


Theo những tài liệu được công bố, từ 1950 đến 1975, Canada đã giúp Việt Nam (Cộng Hòa), thông qua kế hoạch Colombo Plan và Hội Chữ Thập Đỏ Canada khoảng 29 triệu đô la2 . Mỗi năm (từ 1954 đến 1973) có khoảng hơn 50 du học sinh đến Canada, ban đầu chỉ học ở Université Laval ở Québec, rồi dần dần mở rông ra các trương ở Montréal, Sherbrooke, Ottawa... Trong 20 năm, chương trình đào tạo cho khoảng trên 1000 du học sinh bậc cử nhân, kỹ sư.


Sau khi tốt nghiệp, đáng lý là những sinh viên này đều quay lại làm việc ở Việt Nam. Tuy nhiên do tình hình chiến tranh ở Việt Nam, hầu hết sinh viên Việt Nam thuộc Colombo Plan đều ở lại Canada (hoặc rồi đi đến các xứ khác) làm các nghề dạy học, kỹ sư, chuyên viên…. Cũng có một số ít ít quay về Việt Nam. Trong lứa của tôi, đó là các bạn TBMinh (làm việc ở ngân hàng nông nghiệp, đã mất), bạn PHảo (làm việc ngành điện lực, đã nghĩ hưu), NVNhã (kinh doanh). Trước các bạn này thì có anh Mười, anh Giám…sau đó, thì có anh VVBang, NCThắng, chị NPAnh…Cũng có một số về nước, nhưng do không được tin tưởng, do cuộc sống quá khó khăn, đã vượt biên trở lại Canada hay sang nước khác. Nói chung số lượng du học sinh Colombo Plan về sống ở Việt Nam có thể đếm trên đầu ngón tay. (Ngược lại với du học sinh Việt Nam, du học sinh Học Bổng Colombo người Lào, hầu hết đều quay về nước họ và tất cả đều được trọng dụng và đã giữ những vai trò quan trọng trong chính quyền, trong hoạt động sản xuất, văn hóa, xã hội).

Đối với các bạn du học sinh Colombo Plan, lứa 1964-1968 của chúng tôi, thì năm nay là lần đầu tiên sau hơn 40 năm có cuộc hội ngộ ở Montreal. Còn riêng tôi thì có cuộc «hội ngộ» không hẹn với «cơ quan chủ quản của quỷ học bổng đặt trụ sở ở thành phố Colombo». Điều này đã gây vài suy nghĩ trong tôi.



Hơn 45 năm trước, tôi đến Canada, được chu cấp đầy đủ để học hành, rồi đỗ đạc, rồi có được một đời sống tương đối cũng đàng hoàng. Cái ơn này tôi nợ ở đâu, ở ai? Ở Canada, nước tài trợ cho Việt Nam bằng cách cấp học bổng 4 năm cho tôi? Ở Việt Nam, nơi tôi sanh ra và lớn lên và có phiếu điểm cao để được cấp học bổng? Ở Tích Lan, nước có sáng kiến thành lập tổ chức Colombo Plan để cung cấp học bổng cho nước nghèo (Và sau này, tôi có thêm một món nợ khác là «nợ» Phật Pháp)?  Phải nói là tôi nợ cả 3 nước đó. Và tôi đã trả nợ cho ai chưa, như thế nào? Câu tự hỏi thứ hai này càng làm tôi bối rối, ray rứt hơn. Tôi tự thấy, mình ít khi nghĩ về ơn nghĩa của việc cấp học bổng này; chứ còn trả nợ thì…Và nếu có «trả nợ», có đền đáp thì chắc chắn chẳng được bao nhiêu...


Thôi thì cũng phải tự tha thứ và tự an ủi rằng, ít ra là mình biết nhớ ơn, dù có muộn màn và sau khi đã nhận lãnh sự giúp đỡ đó, đã không làm điều gì sai trái (và nếu có làm thì cũng không quá đáng). Còn bây giờ, khi tuổi đã về chiều, mình tự nhủ lòng rằng hãy cố gắng làm sao sống mà không làm điều gì sai quấy, không đem phiền muộn cho ai; cố gắng làm những điều thiện lành; và không bị những tình cảm tham lam, sân hận, ganh ghét điều khiển, chi phối.

«Không làm ác, làm những điều lành, giữ tâm trong sạch»…chính là những lời dạy căn bản của Đạo Phật. Và có lẻ, đối với tôi hiện nay, đó cũng là cách đóng góp cho đời, cách trả ơn tốt nhất cho đời.



                                                               
Lương Châu Phước


Colombo tháng 5, 2011, Montréal tháng 7, 2011


Chú thích:


1. - ‘Colombo Plan’, Wikipedia, http://en.wikipedia.org/wiki/Colombo_Plan
- www.colombo-plan.org
- The Colombo Plan at 60, Upali S. Jayasekera , Daily News July 12,  2011


2. Vietnam War, Victor Levant, at: www.thecanadianencyclopedia.com/index.cfm?PgNm=TCE&Params=A1ARTA0008367


- Theo một nguồn khác (CANADA AND THE COLOMBO PLAN,  by NIK CAVELL )  thì sự đóng góp của Canada vào Colombo Plan, chỉ trong 2 năm đầu là 50 triệu đô la.