Khác với những lần trước, lần này tôi đi với đại gia đình và có thêm một ngày làm từ thiện chung với phái đoàn từ thiện do một nhóm bác sĩ và dược sĩ ở Sài Gòn. Chúng tôi sẽ phát quà, khám bệnh và cho thuốc miễn phí cho đồng bào nghèo tại hai xã ở A Lưới, gần Huế.
Chuyến đi kéo dài năm tuần lễ, dự tính sẽ đi từ Sài Gòn, ra Đà Nẵng, Huế, Hội An, Hà Nội và Hà Giang. Tuần lễ đầu tiên ở Sài Gòn, vì lúc này là cuối tháng 12 nên khí hậu mùa đông tương đối dễ chịu tuy vẫn là nóng với chúng tôi.
Đi chơi ở Sài Gòn, chúng tôi được cảnh báo trước từ những bài báo, nên tôi có ba cái không: không mang ví, không đeo đồ trang sức và không ăn mặc diêm dúa gợi sự chú ý của người khác. Đường phố, ngoài sự đông đúc thường xuyên với người và xe cộ, chúng tôi không gặp một sự cố nào như cướp giỏ, cướp điện thoại di động v.v. Tuy vậy, khi đi ngoài đường tôi cũng ngán ngán nhìn thấy dây điện từng chùm trên đầu, đong đưa trước gió, không biết lúc nào sẽ rớt. Khi nào tôi phải qua đường một mình trong thành phố, thì tôi đứng ở góc đường. chờ xem có ông bà nào qua đường thì đi cùng cho đỡ sợ.
Ở Sài Gòn tôi chỉ thích có hai chuyện: đi ăn quà vặt ở ngoài đường và đi mua sách. Ăn quà vặt thì khỏi nói, nhiều vô kể, món gì cũng có nhưng không bảo đảm an toàn vệ sinh, you eat at your own risk! Tuy bị mọi người khác cảnh báo, tôi vẫn ăn quà vặt như thường và rất may là không bị Tào Tháo đuổi, tuy có lúc bị đau bụng râm ran rồi cũng thôi. Còn mua sách? Thú thật là tôi rất mê sách, nhưng phải là sách in trên giấy, tôi chúa ghét cái gọi là "sách điện tử". Tôi mất một ngày ở nhà sách Xuân Thu, và còn muốn trở lại nữa, nhưng không có ai chở đi nên đành chịu. Sách ở Việt nam rất rẻ, độ năm, ba đollars là đã có thể mua một cuốn sách khá, đủ mọi tiết mục.
Tôi mê cô tác giả tên là Nguyễn ngọc Tư sau khi đọc cuốn "Cánh đồng bất tận" của cô. Cô còn nhỏ tuổi, cỡ tuổi con gái tôi, nhưng mà cô viết quá hay, đề tài của cô thường là về đời sống của người dân quê nghèo ở Nam Bộ. Văn của cô mới đọc thì nghe tửng tửng, nhưng đọc kỹ lại thì thấy nhận xét của cô hay và dí dỏm. Tôi phục cô, mới ngoài 30 tuổi mà đã có rất nhiều kinh nghiệm trong đời sống. Ở tuổi cô, tôi còn đang vất vả với cái máy tính và trường đại học.
Khởi đầu chuyến du lịch là Sài Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long , Cần Thơ, Rạch giá, Hà Tiên, Châu Đốc. Phái đoàn đông, anh hướng dẫn rất rành phong thổ. Đại khái thì cũng đi tắc ở trên sông Cửu Long, tới Bến Tre thì coi xưởng làm bánh tráng, kẹo dừa, nghe cải lương từ nhóm đờn ca tài tử Nam Bộ. Cần Thơ thì có bến Ninh Kiều thơ mộng và chợ nổi Cái Răng.
Trở lại Sài Gòn, chúng tôi lấy máy bay ra Đà nẵng. Đi khu du lịch Bà Nà, anh hướng dẫn là người giỏi về địa dư và văn chương đã rất là sốt sắng trong suốt cuộc du lịch. Khi đến Bà Nà, anh cười cười: " Chưa đi chưa biết Bà Nà, đi rồi mới biết bà nhà vẫn hơn" làm cả đoàn cười rộ. Tôi sợ nhất là leo núi Ngũ Hành Sơn, vừa cao vừa bậc đá lởm chởm rất khó leo. Ở làng làm tượng đá, tôi mua hai con tỳ hưu nhỏ bằng đá xanh. Nghe nói là tỳ hưu chỉ ăn vào chứ không thải ra, cho nên rất là hên trong vấn đề tiền bạc thu nhập. Tôi tự nghĩ là chỉ ăn vào mà không cho ra thì bệnh sớm, hên nỗi gì?
Từ Đà Nẵng ra Huế, qua bãi biển Lăng Cô thơ mộng. Chúng tôi đi tiếp ra Quảng Trị và Cổ thành Quảng Trị, dọc theo đại lộ kinh hoàng. Tôi nhớ đến cuộc chiến, đồng bào di tản cùng với quân đội trên đại lộ này và những người đã thiệt mạng lòng ngậm ngùi, tưởng như còn thấy đâu đây dấu vết của sự kinh hoàng. Chúng tôi đi dọc theo đường mòn Hồ chí Minh phía tây, nay đã trở thành quốc lộ số 15, hai bên vẫn còn là rừng cây. Đến dòng sông Bến Hải, cầu Thạch Hãn, vị trí địa dư chia cắt đất nước. Chụp hình ở nơi này mà lòng buồn nghĩ tới bao nhiêu người đã bỏ mạng vượt tuyến tìm tự do ở trên dòng sông này.
Trở lại Huế, chúng tôi dành một ngày đi làm từ thiện ở hai xã A Lưới. A Lưới là một địa danh nổi tiếng với nhiều chất độc da cam do Mỹ dội xuống để phá hủy rừng, nơi ẩn nấp của Việt Cộng. A Lưới cách Huế độ 2-3 giờ lái xe. Đó là một thành phố nhỏ, nghèo nàn ở trên đỉnh núi, xe phải đi quanh co qua những đường đèo rất là nguy hiểm vì đường đất đỏ, đi quanh theo ven núi, một bên là vực rất sâu, bên kia là rừng. Hôm đó trời mưa, đường đất đỏ rất là trơn, xe do đoàn cứu trợ thuê thì lại cũ, chạy ì ạch. Ngó xuống thung lũng cũng rất là ớn. Sau khi đã hoàn thành công tác cứu trợ, chúng tôi trở về lúc 4 giờ chiều. Dự định sẽ về lại Huế khoảng 7-8 giờ tối. Nào ngờ vừa ra khỏi A Lưới thì con đường đèo bị cắt đứt bởi một cái xe be chở gỗ nằm ăn vạ giữa đường. Con đường đèo nhỏ. chỉ đủ cho một xe, đường dốc, trời mưa. Xe chúng tôi không cách gì tiến lên hoặc lùi. Chờ đến 7 giờ tối thì bác tài quyết định quay xe trở lại. Đó là một quyết định sinh tử vì phải quay xe trên một con đường nhỏ và trơn trượt như vậy. Trong khi phái đoàn Việt Kiều chúng tôi sợ xanh mặt vì chỉ sai một ly là xe sẽ rớt xuống vực, thì phái đoàn bác sĩ và dược sĩ ở Sài Gòn lại tỉnh bơ. nói chuyện râm ran coi như không có gì. Sau này, chúng tôi hỏi làm sao họ bình tĩnh như vậy thì họ cười, bảo rằng đi như vậy đã quen rồi, hết sợ! May phước là bác tài quay xe lại không có vấn đề gì. Chúng tôi đi ngược lại theo đường mòn Hồ chí Minh, lần này thì theo hướng đông, đi qua Khe Sanh và căn cứ quân sự Carol ngày trước.
Như vậy là trong môt ngày chúng tôi đã vượt Trường Sơn theo đường mòn Hồ chí Minh hai lần! Lúc về, trời tối, bụng đói. Tôi ngồi cạnh anh bác sĩ Kiên, trưởng đoàn. Tuổi già, thêm mắc bệnh "tiểu đường", tôi bấm anh Kiên, "nói bác tài dừng lại cho tôi đi "lái ". Anh Kiên im lặng, không trả lời. Đợi thêm 15 phút nữa tôi lại " anh kêu bác tài dừng lại , tôi hết chịu nổi rồi. Lần này anh Kiên mới đủng đỉnh kêu bác tài dừng lại cho bà con đi "lái". Thế là cả đoàn xuống xe, đàn ông bên này, đàn bà bên kia giải tỏa ngay giữa rừng. Anh Kiên còn dọa "coi chừng rớt xuống vực nghe, bà con!"
Về lại đến Huế là 11 giờ đêm, tôi đành đi ngủ, bụng đói nhưng cám ơn trời phật là về khách sạn bình an. Những ngày còn lại ở Huế thì cũng không có gì đặc biệt ngoài việc đi thăm thành phố và đền đài, lăng tẩm v.v. Chỉ một lần, đoàn du lịch được cho ăn trưa ở thôn Vĩ dạ. Nghe đến thôn Vĩ dạ là tôi sáng mắt lên, nghĩ tới bài thơ "Đây thôn Vĩ dạ" của Hàn Mặc Tử. Vừa ăn xong là tôi đi tham quan thôn Vĩ dạ, hi vọng được thấy "Nắng hàng cau, nắng mới lên..." , "Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc..." v.v
Thôn Vĩ dạ bây giờ là một thành phố, với nhà cửa san sát, cột ăng ten TV, đèn xanh, đèn đỏ v.v.
Vĩ dạ ngày nay
Hôm nay lạc bước về thôn Vĩ,
Đâu bóng hàng cau, chẳng thấy vườn,
Nắng lên, trên phố người qua lại,
Xe cộ hai hàng, chảy ngược xuôi
Đây thôn Vĩ dạ, đâu người xưa
Lệ Thanh ơi hỡi, người nơi mô?
Nhân ảnh mờ mờ, tình lạc lối
Áo em trắng quá, tựa như mơ...
Sau khi rời Huế, chúng tôi có hai ngày ở Hà Nội, một ngày đi thăm vịnh Hạ Long và động Thiên Đường. Động này to hơn động Phong Nha, đường trong động rất khó đi vì có nhiều bậc đá ẩm ướt, không cẩn thận có thể bị ngã. Cô hướng dẫn viên người Bắc, đặc biệt đi theo và coi chừng tôi. Có lần cô nắm cánh tay tôi và gọi tôi là "u ơi, cẩn thận coi chừng ngã". Hả, cô gọi tôi là gì? Cô ta cười rũ, lúc đó tôi mới nhớ ra là người Bắc, hồi xưa gọi bố mẹ là thầy và u. Mặc nhiên, tôi đã là "u" của cô!
Trạm cuối của cuộc du lịch là Hà Giang, chốn địa đầu cực bắc của Viêt nam. Ở đây, chúng tôi đi thăm làng của dân tộc Dao trắng và Dao đỏ. Họ sống trong những nhà sàn, bốn phía nhà mở ra ngoài trời mặc cho khí hậu giá lạnh của mùa đông miền Bắc. Buổi chiều, cả đoàn người Dao đi rẫy về cùng với đàn trâu và bò. Đố các bạn, trâu và bò, con nào thông minh hơn? Dĩ nhiên là trâu vì con trâu sống và làm việc chung với người, vui với được mùa và buồn khi mất mùa. Chắc các bạn không quên chuyện người nông phu với trâu và hổ trong Quốc văn giáo khoa thư, người nông phu trói con hổ vào gốc cây khi nó hỏi trí thông minh của người ở đâu để cho hổ biết. Lúc đó trâu đã cười lăn ra, để gẫy cả hàm răng cửa.
Sau khi đi qua Mèo Vạc và Đồng Văn, chỗ cao nhất của Hà Giang là cột cờ Lũng Cú, là cái mốc ranh giới giữa Việt Nam và Trung Hoa. Tôi hơi ngờ ngợ, vì nhớ là ngày xưa học sử, ranh giới giữa Việt Nam và Trung Hoa là Ải Nam Quan. Không biết chính quyền Việt Nam đã đổi lại vị trí này từ bao giờ?
Trở lại Sài Gòn ít ngày rồi chúng tôi cũng về lại Canada và Mỹ. Tất cả chuyến du lịch đã đi vào quá khứ, chỉ còn là kỷ niệm. Có chăng còn lại chỉ là sự ngậm ngùi, vì theo như Aristotle đã nói "chúng ta không bao giờ tắm hai lần trên một giòng sông". Chúng ta thay đổi và giòng sông cũng thay đổi.
Việt Nam ơi, biết bao giờ trở lại, và khi trở lại, chúng tôi biết có còn như bây giờ?

Thanh Ngọc
Tháng năm, 2013