marque

Mừng gặp bạn trong ngày hội ngộ 3 tháng 8 2024. Hẹn bạn trong ngày hội ngộ lần sau.

Thứ Năm, 16 tháng 2, 2012

Ngày xưa, tôi đi học

Thuở còn bé, đọc Phạm Viên trong Nam Hải Dị Nhân của Phan Kế Bính, thấy có người may mắn chỉ vì biết hai chữ cát cao (nghĩa là gàu múc nước) mà được quan trọng dụng, tôi nghĩ sau này muốn cho vinh thân phì gia, tôi chỉ cần chuyên học một cái gì đơn giản nhưng có thể “hái ra tiền”. Nghĩ như vậy có lẽ không sai, vào ngày đó và ngay cả bây giờ. Từ từ lớn lên, tôi mới hiểu “hái ra tiền” không hẳn là cứu cánh duy nhất vì trên đời còn quá nhiều điều tôi cần biết và cần hiểu. Học theo kiểu từ chương ngày xưa làm tôi chán, vì nó không giúp cho tôi hiểu những điều tôi muốn hiểu.

Trong đời đi học, đôi khi tôi cảm thấy thất vọng khi gặp người thầy không tha thiết với việc dạy. Vào lớp, thầy chỉ viết trên bảng những gì mà thầy đã chép trong tờ giấy nhỏ, năm này qua năm khác. Đôi khi có lẽ thầy cũng không biết mình  đang viết những gì; vì thầy đã giật mình khi có đứa học trò đưa tay lên nói “em nghĩ là những gì thầy viết thật sự không đúng”! Và cũng có thầy đã làm tôi rối thêm, khi thầy cố giải thích cho tôi hiểu những gì tôi hỏi thầy. Từ đó tôi ngộ được rằng học và dạy học thật sự không đơn giản và người học, lẫn người thầy, cần phải biết phương cách học và giảng như thế nào cho có hiệu quả.


May cho tôi, năm 1961, tôi được học với thầy Vũ Ngọc Khôi, giáo sư môn Vật Lý, trường Petrus Ký. Ngày ấy, học sinh trong lớp đều không thích lối dạy học “lười biếng” của thầy; vì thầy bắt mỗi đứa trong lớp phải tự soạn bài để tuần sau thầy chọn một đứa trong lớp lên bục giảng cho cả lớp nghe. Thầy là người ngồi nghe và sửa những chỗ mà học trò đã giảng sai, hay trả lời thế cho “người học trò giả làm thầy” khi anh này không trả lời được câu hỏi của thầy, hay của người bạn đồng môn. Ngày ấy, chúng tôi vất vả lắm khi phải tự soạn bài giảng, trong khi người thầy cứ “lười biếng”, chỉ ngồi nghe. Sau này, nghĩ lại thì thầy quả là người tiên phong trong lối dạy mới lạ này, một lối dạy nhằm ba mục đích: (1) học trước khi vào lớp, (2) cố gắng tự tìm hiểu, và (3) tập trình bày trước công chúng. Nói chung thì “học trò tập làm thầy” đúng là nhất tiễn song điêu. Tôi đâu ngờ rằng ngày ấy thầy đã khải thị và đã lót đường cho tôi để tôi không phải vất vả, nhọc nhằn trong suốt đời đi học còn lại của tôi! Xin cảm ơn thầy. Bây giờ, hơn năm mươi năm sau, thật sự trên thế giới hiện đang có được bao nhiêu lớp học theo phương cách này?

1.      Học trước khi vào lớp

Vào lớp, đa số học trò thường chỉ chép những gì ghi trên bảng và đôi khi không biết mình đang chép gì; về nhà đọc lại, hoặc đọc thêm sách giáo khoa, mong hiểu được những gì thầy “dạy” ở trong lớp. Học như vậy, người học luôn luôn đi sau và phải chạy theo “bài học”: vô cùng vất vả. Mặt khác, người học bỏ lỡ cơ hội học hỏi với thầy khi vào lớp (Chữ “hỏi” này mấy ai đã từng chú ý đến?).

Bây giờ thì lối học như vậy đã lỗi thời, mặc dầu vẫn còn nhiều người chưa nhận được sai lầm và tiếp tục học như vậy. Nhưng, đã có một số người đã chọn lối “học trước khi vào lớp” và muốn được như vậy nhà trường cần phải cung cấp bài vờ trước cho người học; người học không cần biên chép nữa. MIT OpenCourseware đã làm được việc này!

2.      Tự tìm hiểu

Phần đông sách giáo khoa được viết mạch lạc nên việc tự học không khó khăn lắm; chỉ cần mình tập trung tư tưởng, cố gắng hiểu và suy diễn những hậu quả của những gì mình đang đọc. Mình sẽ rất vui khi tìm thấy những điều mình  đoán trước, ở các đoạn sau. Riêng tôi, tôi đã thử nghiệm phương cách này với một số bạn bè và ai cũng đồng ý rằng cách này giúp họ học các môn mới lạ dễ dàng hơn; đồng thời giúp họ tiếp tục học sau khi rời mái nhà trường. Tôi không biết phải gọi cách đọc sách như vậy như thế nào. Tôi tự chế, gọi là “forward reading”, một chữ không giống ai khi tôi truy tìm trong Google.

3.     Trình bày trước công chúng

Suốt bốn năm học Đại Học, tôi chỉ có một dịp duy nhất để trình bày trước các bạn đồng môn khi vị giáo sư môn Industrial Engineering chỉ định tôi nói về The Role of Statistics in Quality Control. Trong những năm kế tiếp, khi đi học và khi đi làm, vẫn không ai dạy cho tôi cách nói chuyện trước công chúng. Áp lực đè nặng trên tôi khi tôi đại diện trường, hay đại diện sở, để thuyết trình ở các buổi hội thảo: tôi không thể  làm nhơ danh của trường hay của sở! Phải nói như thế nào để người nghe xiêu lòng, đổi ý để theo ý của mình. Phải chuẩn bị làm sao để có thể đối đáp trôi chảy, để người nghe kính nể trường hay sở của tôi. Ước ao sẽ có một ngày những người trẻ hơn tôi có cơ hội được nhà trường huấn luyện nghệ thuật nói chuyện trước công chúng, trước khi vào đời.


Bây giờ thì việc đi học, đi dạy đã thay đổi rất nhiều; kể từ khi mạng Internet phổ biến toàn cầu. Người đi dạy không phải phí thời giờ soạn bài giảng cho các môn căn bản, vì phần lớn các bài giảng như vậy đã được đăng trên mạng. Một số đại học quốc nội hiện đang tham gia chương trình Vietnam OpenCourseWare (VOCW) với các bài giảng bằng tiếng Việt  tiếng Anh. Người dạy không còn phải chép bài trên bảng và có nhiều thời giờ để giảng dạy và trao đổi với học trò hơn. Trong lớp học, người đi học không còn phải bỏ công chép lại bài trên bảng; dành thời giờ lắng nghe lời thầy giảng và trao đổi với thầy. Khi ra khỏi lớp, người đi học vẫn có thể theo dõi lịch trình làm việc của giáo sư, dùng e-mail để trao đổi ý kiến với giáo sư hoặc nộp bài tập đã hoàn tất.

Bây giờ thì người đi học không vất vả như ngày xưa, nếu họ có thể nối vào mạng Internet. Có điều gì thắc mắc thì vào Google (hay dùng các search engines khác); thường thường đều có câu trả lời chánh đáng; không cần phải lê xác vào thư viện kiếm tìm. Làm toán ư? Không còn cần phải tính bằng tay, bằng thước tínhhay calculator bỏ túi nữa vì các máy tính bây giờ đã có đầy đủ chức năng. Bây giờ ít ai còn nhớ cách lấy căn số bậc hai bằng tay; và có mấy ai biết tại sao người xưa đã nghĩ ra phương cách này. Bây giờ có bao nhiêu người biết và nhớ công thức tìm ẩn số cho phương trình bậc ba, bậc bốn? 


Thật sự thì việc nhớ các công thức như vậy đã không còn cần thiết nữa, vì Internet có thể nối kết mau chóng đến các trang liên hệ với đầy đủ chi tiết cần thiết. Mặt khác, trên mạng đang có dãy đầy các trang Web; thí dụ như trong lãnh vực Toán có Wolfram MathWorld trong khi ở các lãnh vực khác (như Lý, Hóa, Kỹ Thuật) chưa có trang Web gom tất cả những điều cần biết vào một mối, một phần vì phạm vi của các lãnh vực này quá  rộng lớn, một phần vì nhu cầu này chưa được xem là cần thiết.   

Bây giờ có rất nhiều software giúp mình giải Toán, hoặc các vấn đề kỹ thuật, một cách mau chóng và hữu hiệu. Việc thực tiễn bây giờ là am hiểu các software đang có trên thị trường để khi cần, có thể áp dụng một cách hữu hiệu. Vào thời điểm bây giờ thì vấn đề then chốt khi giải một bài Toán, hay thực hiện một công trình, là phân tích xem phương cách nào là phương cách tốt nhất để đạt được mục tiêu: nhanh nhất, chính xác nhất và rẽ nhất. Hiện nay trên thị trường có nhiều software tương tự với giá cả khác nhau; thậm chí có cả software “chùa”. Điển hình cho việc chọn lựa “chùa hay không chùa” là Matlab hay Scilab, Microsoft Office hay OpenOffice

Nói chung thì việc học, việc dạy, đã thay đổi rất nhiều từ ngày tôi bắt đầu cắp sách đến trường. Theo tốc độ tăng trưởng hiện giờ của ngành Tin Học, tôi tin rằng trong tương lai gần sẽ có nhiều biến chuyển ngoạn mục hơn nữa. Gần đây, MIT loan tin sắp sửa trình làng MITx vào mùa Xuân 2012; Wolfram đang thí nghiệm  Wolfram Education Portal , vân vân. Những người trẻ hơn tôi sẽ có dịp học hỏi nhiều hơn tôi, dễ hơn tôi. Xin thành thật chúc mừng bạn.

Nguyễn Khắc Phụng

Tháng 2, 2012