Ngày rời
Việt Nam năm 1964, tôi thật sự không biết nhiều về Canada. Tôi chỉ biết Canada
là một xứ ở Bắc Mỹ nằm trong khối Thịnh Vượng Chung, song ngữ và người Québec
nói tiếng Pháp nhiều hơn nói tiếng Anh, mùa Đông lạnh và dài, người Canada thân
thiện như những người làm việc cho Uỷ Hội Kiểm Soát Đình Chiến tôi từng gặp
trong buổi tiệc họ thết đãi chúng tôi ở nhà hàng Mỹ Cảnh… Những ngày đầu ở
Ottawa đã làm tôi thất vọng: residence tôi ở và nhiều lớp học của Đại Học
Ottawa thời bấy giờ là những barracks bằng gỗ, ọp ẹp, cũ kỷ … Ngày ấy, sinh
viên năm thứ nhất ở Đại Học Ottawa phải học English Literature và Geology,
những môn mà theo tôi không liên hệ với ngành Kỹ Sư Cơ Khí tôi đang theo học.
Một hôm, tôi bạo gan lên văn phòng của Ông Khoa Trưởng phản đối việc trường ép
buộc sinh viên khoa kỹ thuật học những môn “cà chớn” như vậy. Họ trả lời rằng chương trình của
họ đã được áp dụng từ bao nhiều năm qua, mục đích để tạo “kiến thức tổng quát”
cho sinh viên, không dành biệt lệ cho bất cứ một ai! Tôi bắt đầu tự hỏi phải
chăng tôi đã lựa chọn sai lầm, khi quyết định chọn học bổng của Plan Colombo
sang Canada. Nói chung thì những cảm nhận về Canada trong những ngày đầu của
tôi không được đẹp lắm; Canada không tân tiến lắm, nhất là khi nhìn Toà Quốc
Hội với lối kiến trúc cỗ kính, rêu phong.
Nhưng, sống ở Ottawa, chúng tôi có nhiều dịp may hơn các anh chị cùng khoá ở Montréal, Sherbrooke hay Québec; thí dụ như được gặp gỡ các chính khách người Canada trong các buổi tiếp tân dành cho sinh viên ngoại quốc trong chương trình tài trợ của External Aid Office. Ngày tôi gặp Ông Paul Martin Sr. năm 1965, tôi chỉ biết ông là một Nghị Sĩ mà hoàn toàn không biết gì về những thành tích của ông trong chính trường. Phải chi ngày xưa có Google như bây giờ! Sau lần đó tôi nhận định rằng người Canada cởi mở, thân thiện, không câu nệ giai cấp, dầu phải đối diện với người không hề quen biết; một kẻ không ra gì như tôi. Thiện cảm với Canada từ đó nẩy nở trong tôi.
Hè 1966, chúng tôi bốn người, đi Winnipeg học khoá Machine Shop tại Manitoba Institute of Technology (MIT!) để chuẩn bị chuyển trường về McGill. Trước khi rời Ottawa, chúng tôi đã nhờ ngân hàng ở Ottawa chuyển tiền cho một chi nhánh của họ ở Winnipeg. Hai tuần lễ sau khi đến Winnipeg, tiền chúng tôi mang theo đã cạn và tiền chuyển từ Ottawa vẫn chưa đến. Trên xứ lạ, tứ cố vô thân; chúng tôi không biết phải xoay sở làm sao. Cuối cùng chúng tôi đành dắt díu nhau đi gặp một người trong ngân hàng, kể rõ sự tình. Rất may cho chúng tôi, bà quản lý tốt bụng ứng trước một chút tiền cho chúng tôi và để chúng tôi bảo lãnh cho nhau trong khi không đứa nào còn một đồng xu dính túi, đang lang thang nơi xứ lạ trời xa. Và như vậy, chúng tôi qua cơn hoạn nạn. Và từ đó tôi học được hai chữ “tình người”. Chuyện đã qua đi từ rất lâu, nhưng kỷ niệm ngày đó vẫn còn mãi trong tôi; chỉ tiếc tôi chưa hề có dịp quay lại để nói thêm với bà một lời cảm ơn.
Trong bốn năm theo học trong chương trình Colombo, chúng tôi đã rất may mắn, được hưởng những đặc ân mà nhiều người sinh viên bản địa phải cật lực, vất vả lắm vẫn không nắm được trong tay. Canada đã chăm lo cho chúng tôi như ngày xưa Châu Long đã chăm sóc Lưu Bình! Ngày đó chúng tôi không hề tìm hiểu về chương trình Colombo của Canada, nên đã không biết những diễn biến trong chương trình Colombo mặc dầu lúc đó đang sống ở Canada. Xin trích bài diễn văn của Ông Maurice Strong, Tổng Giám Đốc của External Aid Office, thuyết trình ngày 26 Tháng Giêng 1967, tại Royal York Hotel, Toronto:
There was
also a total of some 2,900 students and trainees in Canada during 1966 from some
57 countries; compared with 709 in 1960. These people are receiving from
colleges, universities, technical training institutes and co-operative, labour
and business organizations in every part of Canada, the kind of training which
is not available in their own countries. Incidentally, it
might interest you to know that at the present time the largest contingent is
from Vietnam. The principal need of all developing countries is for trained
and educated people. The Canadian program is designed to provide training for
teachers and trainees who can pass along their skills to others, and so
multiply the effectiveness of the assistance we give them.
Chương trình
đào tạo chuyên viên như vậy thoạt mới nghe thì có vẻ hay, nhưng hiệu quả như
thế nào thì cần suy nghĩ lại. Trước nhất, lối dạy ở trường đặt trọng tâm vào
phần lý thuyết; phần thực dụng nhà
trường hoàn toàn trông cậy vào hãng xưởng. Đây là một nhược điểm của chương
trình đào tạo kỹ sư ở Canada mà người viết từ bao lâu nay đã đồng ý với tác giả
của quyển Engineers Becoming Managers . Chương trình Colombo đã không tạo đủ cơ hội cho
người sinh viên đạt được những kinh nghiệm thực dụng khi mãn khoá, lên đường về
nước. Mang tiếng là du học, nhưng thật sự chưa học đủ; và nếu dùng kiến thức đó
để truyền lại cho những người bên nhà thì quả là thiếu sót. Mặt khác, Tổng Nha
Kế Hoạch phú thác mọi việc huấn luyện chuyên môn cho chương trình Colombo; họ
đã không theo dõi xem người du học có học đủ và đúng những thứ cần thiết, thích
hợp cho việc kiến thiết nước nhà hay không. Đồng thời, chương trình Colombo
giao trách nhiệm việc huấn luyện chuyên môn cho nhà trường; miễn sao cho người
du học lên lớp mỗi năm một lần, để đến khi tốt nghiệp, họ sẽ mời người du học
về nước, coi như là họ đã làm xong phận sự! Trong suốt bốn năm trước khi tốt
nghiệp, người viết không hề có dịp trò chuyện, trao đổi ý kiến với nhân viên
trong chương trình Colombo về việc huấn luyện theo phương cách của họ. Giả mà ngày đó tôi có dịp gặp
họ, có lẽ tôi cũng không biết phải nói gì với họ. Chỉ đến bây giờ, nhìn lại,
tôi mới nhận ra khuyết điểm trong chương trình đào tạo chuyên viên giữa hai
nước Việt Nam và Canada.
Năm 1968
đánh dấu một thời điểm quan trọng trong đời sinh viên chúng tôi. Năm đó, chúng
tôi học xong bốn năm mà chương trình Colombo có trách nhiệm phải hoàn thành cho
chúng tôi. Đó có nghĩa là chúng tôi phải hồi hương để bắt đầu làm việc và huấn
luyện những người không may mắn được xuất ngoại như chúng tôi. Giữa cảnh non
sông còn mịt mù khói lữa, liệu chúng tôi sẽ làm được gì khi hồi hương? Tiếp tục
học lên ư? Phần lớn mọi người trong nhóm chúng tôi đều thừa tiêu chuẩn để theo
đuổi chương trình Hậu Đại Học. Nhưng, ai có quyền cứu xét và chấp thuận? Ở điểm
này, chúng tôi thành thật tri ân Tổng Nha Kế Hoạch và External Aid Office vì họ
đã giơ cao đánh khẽ để giúp chúng tôi được có dịp đạt thành mộng ước chúng tôi
đã mang theo từ lúc rời bỏ quê nhà: khi
nào công thành mới trở về.
Từ bao năm nay Canada đã mở rộng vòng tay đón nhận chúng tôi, tạo cơ hội cho chúng tôi hoàn thành chương trình đào tạo kỹ sư thật sự, nhưng oái ăm thay, chúng tôi không thể trở về. Một số anh chị em trong nhóm chúng tôi đã chọn nơi này làm quê hương thứ hai, để mỗi lần đi xa lại nôn nóng quay về. Bởi nơi đây có bao nhiêu người thân, bạn bè đang đợi đang chờ; và nơi đây còn biết bao kỷ niệm vui buồn trong gần nửa thế kỷ qua. Chúng tôi thật sự đã trưởng thành và vào đời trên đất nước này. Từ bao năm nay nhóm chúng tôi đã bỏ tâm sức góp phần vào việc phát triển kỹ thuật, huấn luyện kỹ sư và sinh viên; đồng thời cũng đón nhận phúc lộc của xứ sở này. Vô hình trung, chúng tôi đã trả lại cho Canada một món nợ ân tình. Một số anh chị em trong nhóm chúng tôi cũng đã tích cực tham gia các cộng đồng Việt Nam, địa phương hay viễn xứ, để cùng nhau bàn tay nắm lấy bàn tay, xây dựng mái nhà Việt Nam bên ngoài Việt Nam; vì chúng tôi vẫn không quên mình vốn là người Việt Nam.
Khi ấm êm
trong vòng tay bảo bọc của cha mẹ, đứa trẻ thường không nhận thức được đặc ân
mình đang hưởng; mãi cho đến khi trưởng thành, nghĩ lại mới trân quý hơn những
gì mình đã có. Xin hãy cho tôi nói lời cảm ơn muộn màng: cảm ơn Tổng Nha Kế
Hoạch, cảm ơn Chương Trình
Colombo và cảm ơn Canada.
Nguyễn Khắc Phụng
Một ngày đầu
năm Nhâm Thìn