“Viết để nhớ
những thằng bạn đầu đời nơi miền đất
lạnh
Lon Chuẩn Úy trên cầu vai chưa kịp nóng, thì tôi nhận được
lệnh đi chiến dịch ở Gò Công. Gò Công hiền
hòa. Chiến sự ở đây không đến nổi sôi động
như vùng địa đầu giới tuyến. Mỗi tháng một lần, anh em chúng tôi được đặc ân thay
phiên nhau về phép 24 giờ. Thế mà hôm
đó, đến lược tôi, tiểu khu lại ra lệnh cắm trại trăm phần trăm. Đời quân nhân, không có gì quý hơn tờ giấy
phép. Sống chết không biết chừng, thế mà
ngay một tờ phép 24 giờ mỗi tháng một lần cũng chẳng có. Bất mãn thật.
Tôi lang thang quanh trại, phần bất mãn không được về Sài
gòn thăm em gái hậu phương, phần giận số mình con rệp, tự nhiên chui vào đời
lính. Biết thế, mình trốn lại ở Canada
cho rồi, về đây đúng là đồ ngu. Tình cờ
đi qua trước một cổng chùa, thấy một ông thầy bói. Thầy chuyên bói Dịch, nhưng cũng biết bói bài,
coi Tử Vi. Tôi vốn không mê tín dị
đoan. Nhưng đang lúc chán nản, không làm
gì, tương lai lại đang mù mịt, tôi đành bỏ ít trăm bạc, xem thử vận mình ra
sao. Hồi đó, mấy trăm cũng khá nhiều vì
lương lính của tôi có là bao. Nhưng
thây kệ, mua chút hy vọng.
Ông thầy bói người Hoa, người nhong nhỏng cao, tuổi độ tứ
tuần, mắt đeo kính râm. Tiếng Việt không
“chuẩn” cho lắm, nói tiếng Việt, nhưng hay xen lẫn với tiếng Hoa.
Ông thầy hỏi tên tuổi.
Tôi không mấy tin bói toán. Định
nói dối, thử thầy. Nhưng trong mình ít tiền,
vả lại mình cũng có nhu cầu, tôi đành nói thật.
Khai luôn là sĩ quan mới ra trường, để phân bua cho số tiền cúng Thánh quá
khiêm nhượng. Thầy bảo tôi gieo quẻ. Tôi lòng thành, trịnh trọng đặt tiền lên
dĩa. Gieo quẻ xong, thầy bảo: “Hào này động về bạn bè, tiên sinh xem thử
trong đám bạn bè, tiên sinh hay nghĩ đến ai”. Tôi ngẫm nghĩ. Người quen thì không thiếu. Trong lính, huynh đệ chi binh. Sống chết có nhau, coi nhau như anh em. Nhưng nghĩ lại, trong hệ thống “quần giài”, đẳng
cấp rõ rệt, thì khó mà lý giải đó là tình đồng ngũ hay tình bạn
bè? Không khai với Thánh thì thôi,
mà đã khai thì phải chính xác, không thôi trật quẻ. Suy đi nghĩ lại, nhớ ra rồi: mấy thằng
bạn hồi du học. Nè, mới qua miền
đất lạnh, ở chung một nhà. Nằm một
phòng, ăn chung một chỗ. Khi cảm mạo, tụi
nó cạo gió giùm. Khi đói, cứ tự nhiên như
người Hà Nội, lấy đồ chúng nó để trong tủ lạnh ra mà ăn. Trốn học, thì có đứa đi lấy cours giùm. Tử tế một chút, thì chúng nó làm thế luôn cả “labo”. Đúng
là bạn bè. Tài Thánh cũng không
cải lý với mình được. Tôi bèn nói: “Thưa thầy, bạn bè con thì không ít, nhưng thất
lạc cũng nhiều. Đúng nghĩa là bạn bè thì con có 4 thằng bạn đầu
đời: Phúc, Bình, Quý và Tâm. Nhưng xa cách lâu ngày rồi, con không biết
chúng ở đâu, thành cũng không còn liên lạc được”.
Ông thầy nghe qua, không nói gì. Nghĩ thầy chê tiền cúng Thánh ít, tôi móc ví đưa
thêm một trăm nữa, dạ dày đau như cắt.
Vì như vậy là buổi cơm trưa hôm đó đi đong. Cúng Thánh xong, ông thầy
bói mới thở dài, chậm rải bảo: “Với tên ngài mà không ở chung được với mấy
người bạn đó, thật là tội nghiệp, tội nghiệp.
Tôi theo khoa Chiết Tự của người Tàu, nói cho ngài nghe. Này nhé.
Ngài có bạn tên Phúc, Quý, Bình và Tâm, mà lại không ở với họ được. Ông nhấn mạnh chữ “không”, rồi giải
thích. Trong Hán tự, Không là Bất, là
Vô. Ông thầy bèn quện tên cúng cơm của
tôi với tên 4 thằng bạn, xong “phán” một câu xanh rờn: “Vô Phúc, Vô Phúc!!!, Bùi bất Quý, Mình bất Bình, Tâm bất Chánh”. Tiên sinh họ Bùi [người Hoa hay dùng họ để chỉ tên]. Không gần mấy ông bạn đó, thì
Bùi tiên sinh “bất Quý”. Bản thân ngài [Mình (nói trại chữ Minh)] thì “bất Bình”, Tâm thì “bất Chính” (nói
trại chữ Chánh). Thấy không, vô Phúc, vô Phúc thật? Không gần ông Quý, thì ngài không thể nào giàu có được,
không có ông Bình thì bản thân ngài thì luôn luôn bất mãn, còn không gần ông
Tâm, thì tâm địa ngài bất chính. Đường hậu
vận ngài không khá được. Đúng là ngài
vô Phúc! Xin lỗi ngài, lời Thánh dạy, có
sao tôi nói vậy mà thôi”.
Tôi tái mặt. Chỉ một
câu ngắn gọn mà bao đủ cả đời mình.
Lòng buồn vô hạn. Tôi
suy ngẫm lời ông thầy bói, xem thử có đáng tin hay không. Không tin, sao thế được. Nhưng ừ, cũng có thể đúng. Để coi này.
Mình lương lính, nghèo là cái chắc.
Bất mãn là chuyện tất nhiên. Tự
nhiên cha mẹ cho ăn học, đi đây đi đó, lại chui vào đời lính. Nhất là lúc này, đang
cực kỳ bất mãn vì cả tháng rồi, chưa được về thăm em gái hậu phương. Nhưng bảo mình tâm địa bất chính thì quá vô
lý. Vì từ nhỏ đến lớn, dù không giúp ai,
tôi cũng chưa làm hại ai. Nhưng kiểu ông
thầy này nói ăn chắc quá. E là đúng mà mình
không biết. Như mấy người điên, có ai nhận
họ điên đâu. Ê, không được, tôi không phải
người điên, mà dùng lý luận đó, thi thật ép tôi quá. Tôi bèn nghĩ cách chống chế. Thà công nhận ông thầy đúng đi - chấp nhận
mình tâm bất chính, còn hơn là để người ta bảo mình điên. Ồ, nhớ ra rồi, sơn hà nguy biến, cắm trại trăm
phần trăm, mà trong lòng mình cứ phè phỡn, chỉ mong có dịp về thủ đô, “quậy” mấy
em Sài gòn, thì đùng là tâm bất chính rồi. Buồn thì buồn, nhưng ông thầy nói đúng thật. Thầy trên thông thiên văn, dưới thông địa lý!
Thấy tương lai có quá nhiều trắc trở, tôi nhờ thầy chỉ
thêm “vài đường” để tránh “tai kiếp”, có cách gì giải hạn được không. Ông thầy bấm quẻ, ngẫm nghĩ một hồi, rồi bảo:
“Chỉ có cách ngài đi tìm lại mấy người bạn
cũ đó. Gặp lại mấy người bạn đó rồi, thì
giải được hạn, cái gì ngài cũng có cả”.
Thầy quả quyết: “Quẻ Thánh dạy, không thể sai”.
Nhưng đã về Việt Nam mà lại đi lính, tuổi quân dịch
còn dài dài, thì làm cách gì mà xuất ngoại được. Còn bạn bè thì muôn
trùng, làm sao mà gặp lại đây. Một lần
đi là một lần vĩnh biệt. Chịu
thôi! Cũng tại số mình xui, không được
ở gần chúng nó, nên chẳng hưởng được Phúc như lời Thánh dạy. Thôi số con rệp.
Người tôi như bị muối xát ruột gan, lòng buồn phiền vô hạn.
Buồn bực, đi về trại, suy nghĩ nhiều về mấy lời ông thầy bói. À, sao lúc đầu ổng gọi mình là tiên sinh,
xem quẻ xong lại gọi một tiếng là ngài, hai tiếng là ngài nhỉ. Phải nói, lúc đầu, nghe được người khác
gọi là ngài, cũng có một chút khoái tỉ thật, vì từ trước đến giờ chưa ai gọi
tôi như vậy. Chắc đường binh nghiệp
thênh thang mở rộng, sắp thăng quan tiến chức, sẽ không còn là một chuẩn úy
quèn nữa. Nhưng nghĩ lại, thầy có bảo
số mình vô phúc, mà súng đạn lại vô tình.
Thời chinh chiến, mà vô phúc, thì làm sao mà sống lâu được. À nhỉ, chắc ông tiên tri được, biết trước,
mình sắp lên bàn thờ ngồi, thành ổng gọi trước cho chắc. Tân sĩ quan mới ra trường, lên bàn thờ sớm,
cũng không phải là chuyện lạ. Chán sự đời. Đói bụng, không tiền, muốn hút mấy điếu thuốc
mong xóa đói, giảm buồn. May quá, trong
túi còn một bao thuốc Capstan (niềm vui của lính), nhưng chỉ còn leo tèo đôi
ba điếu thuốc lẻ. Mân mê điếu thuốc, phì
phà khói, thổi hết vòng tròn này đến vòng tròn nọ. Nhìn bao thuốc, với mấy chữ C.A.P.S.T.A.N., đọc
xuôi đọc ngược, ngâm nga mấy câu hát sến:
“Cho Anh Phát Súng Tim Anh Nát,
Nhưng Anh Tin Số Phận Anh Còn”
Mấy câu này, ngày thường nghe rất là cải lương sao
đó. Nhưng theo ông thầy bói nói, thì
số mạng mình chắc chẳng ra chi. Thành
lúc đó, lại cảm thấy thấm thía vô cùng.
Rồi tình hình chiến sự tạm lắng dịu. Tôi được biệt phái trở về làm việc cơ quan
dân sự. Cuộc sống ổn định, ám ảnh chết
chóc cũng không còn lẽo đẽo nữa. Chuyện coi bói ngày xuân năm đó, từ từ đi
vào lãng quên.
Chuyện dĩ vãng trở thành dĩ vãng. Cho đến một ngày . . .
Định mệnh an bài. Hai
năm sau đó, không ngờ tôi trở lại Canada, dưới “diện” thuyền nhân. Một trong những việc đầu tiên, ngoài việc lo chạy
ăn hàng ngày, là đi kiếm mấy người bạn cũ, trong đó có mấy thằng bạn đầu đời nơi
miền đất lạnh. Tìm mệt nghĩ. Có đứa kiếm ra, đứa không ra. Có người Trời không cho gặp. Cũng có đứa đi kiếm tôi. Tôi vẫn nhớ hoài, có bạn ở tỉnh xa đến thăm,
gặp khi tôi đi vắng. Chờ không được, bỏ
về, tiện thể luồn mấy chục bạc dưới cửa phòng trọ, nguệch ngoạc vài chữ hỏi
thăm. Tiếc mãi đến giờ, tôi vẫn chưa có
dịp gặp lại đươc để nói hai chữ cám ơn.
Chẳng phải vì mấy chục bạc, mặc dầu mấy chục bạc đối với tôi hồi đó khá
lớn, cả một tháng tiền ăn. Nhưng cái
tình đó đâu dễ có, nhất là tôi, như bao nhiêu đồng bào di tản khác khi đó, đang
sa cơ thất thế.
Rồi dòng đời trôi nổi.
Tôi, như bao nhiêu người khác, sống cuộc đời đi cày. Như ai, tôi cũng có thêm người quen, có bạn
bè, đồng nghiệp. Tôi bắt chước dân bản xứ, gọi chung họ là bạn. Sống chỗ nào theo chỗ ấy mà. Nhưng sao lạ thế nhỉ. Cũng là bạn, mà không cùng thân thương như mấy
đứa bạn hồi còn chung đi học. Cũng không
gần gũi như với đồng ngũ của mình thời đi lính.
Chính vậy, mà sau này tôi không mấy có thêm bạn mới, và cũng không mấy
khi tìm cách gặp ai. Thiên hạ vẫn thường
gọi tôi là dân làng lặn, lặn sâu, lặn kỹ, lặn vững chắc.
Rồi một ngày tháng 8 năm 2011 . . .
Gặp lại nhiều bạn bè cũ, sau nhiều năm xa cách. Tự nhiên, sực nhớ ông thầy bói gần 40 năm về
trước. Nhớ luôn lời Thánh dặn là muốn
đời lên hương, tôi phải kiếm bốn thằng “Tứ Quỷ” đó. Nhưng bốn đứa, nay chỉ còn gặp có ba. Thiếu
thằng thứ tư, lòng muốn hỏi lại Thánh cho chắc. Nhưng non cao đất rộng, ông thầy bói
ngày xưa, biết đâu mà tìm. Thà kiếm thằng thứ tư thế mà có lý hơn.
Nhưng tìm mãi, đến giờ vẫn chưa gặp. Đều suy đi nghĩ lại, gặp ba là vui rồi. Trong cái khuyết, có cái tròn là chuyện thường.
Biết vậy, nhưng lòng vẫn băn khoăn. Nếu
lời Thánh dạy là đúng, thì vô lý, suốt đời, mình vẫn còn phải bất mãn
sao?
Vì
thế, mà tôi mãi mãi kiếm hắn.
TÂN XUÂN KHAI BÚT ĐẠI CÁT, Xuân Đinh Dậu
Toronto, 2017