50 năm trước,
ngày 1 tháng 1 năm 1967, Canada
bắt đầu ăn mừng lễ sinh nhật Canada được tròn 100 tuổi, mặc dầu người dân phải
đợi đúng sáu tháng sau, vào ngày lễ quốc khánh, lễ mới thật sự được cử hành trọng
thể. Trước đó vài tháng (ngày 14 tháng 10, 1966), hệ thống Métro de Montréal được
khánh thành với xe điện tân kỳ chạy bằng bánh cao su, chuẩn bị cho Expo 67 (27 tháng 4 đến 29
tháng 10, 1967).
Trong khi
bao nhiêu người dân Canada hân hoan ăn mừng lễ sinh nhật bách niên của Canada,
nhóm sinh viên plan Colombo 1964 của chúng tôi bắt đầu suy tư về tương lai của
mình. Mùa thu năm đó, chúng tôi bước vào năm cuối cùng của chương trình học 4 năm
ở Canada. Dĩ nhiên là chúng tôi vẫn phải học cho tốt, vì đó là sứ mệnh người ta
giao phó cho chúng tôi. Nhưng sau khi tốt nghiệp, chương trình du học hoàn tất,
chúng tôi phải làm gì? Việc dễ dàng nhất là nhắm mắt, làm theo những gì đã được
ghi vào văn bản: hồi hương!
3 năm trước đó,
chúng tôi đến xứ sở này với một hoài bảo: học cái hay của xứ người, mong ngày
sau có dịp hữu dụng. Nhưng chúng tôi không có quyền chọn lựa học những môn mà
chúng tôi nghĩ là thích hợp và hữu ích cho nghề kỹ sư sau này. Nhìn lại thì sau
3 năm học hành chăm chỉ, chúng tôi thật sự chưa học được bao nhiêu; ngoài một
chút kiến thức trong sách vở, chúng tôi chưa có kinh nghiệm nào cả về thực hành.
Trong những năm đó, chúng tôi rảnh rỗi vào mùa hè nhưng chương trình Colombo chỉ
cho chúng tôi học những thứ “vớ vẩn” như sinh ngữ, hay học “bù” cho những môn mà
trường không đủ điều kiện để dạy cho chúng tôi như môn Machine shop; chúng tôi không có cơ hội để học hỏi kinh nghiệm
trong “đời thường” của người kỹ sư vì người ta không cho chúng tôi tập sự trong
cơ xưởng của người Canada. Vào những ngày ấy, các đại học chưa có chương trình
co-op hay internship cho người học ngành kỹ sư như bây giờ. Vì vậy, vào những
ngày đó chúng tôi thật sự mù tịt về Canadian technology; giá mà năm sau đó chúng
tôi hồi hương thì có lẽ chúng tôi sẽ phải xấu hổ khi phải thú thật với những
người bên nhà là chúng tôi không biết gì cả!
Tâm trạng của
chúng tôi lúc bấy giờ tương tự như tâm trạng của cậu bé 17 tuổi, còn 1 năm nữa
sẽ học xong trung học, đứng trước 2 ngả đường: bước vào đời, hay tiếp tục học
lên đại học. 5 năm trước đó, chúng tôi đã chọn tiếp tục học; thì bây giờ vì lý do gì mà chúng tôi lại quyết định
chọn ngả bước vào đời?
Nếu chọn ngả bước vào đời, thì như đã viết ở trên,
chúng tôi thật sự chưa có đủ điều kiện. Một người kỹ sư vừa tốt nghiệp chưa có
kinh nghiệm về kỹ thuật, chưa có kinh nghiệm về quản trị, thật sự không thể giúp
ai cả. Trong chương trình Colombo chúng tôi không được phép học hỏi những kinh
nghiệm như vậy. Dầu muốn học hỏi, chúng tôi lại không được phép đi làm (dầu không
lương, một việc mà cho đến bây giờ chúng tôi vẫn không hiểu lý do tại sao ngày
xưa người có thẩm quyền trong chương trình Colombo lại quyết định như vậy). Cho
nên, chọn ngả bước vào đời chúng tôi
chỉ còn cách hồi hương sau khi tốt nghiệp.
Vào những ngày
ấy, tin tức về chiến trường Việt nam xuất hiện dồn dập trên các cơ quan truyền
thông của Canada và Hoa kỳ:
· Đầu năm 1967, chiến dịch Cedar
Falls khởi động nhằm triệt tiêu căn
cứ địch ở vùng Tam Giác Sắt.
· Tháng 8 1967, chiến dịch COCHISE kéo dài chín ngày ở
thung lũng Quế Sơn, cuối cùng không chạm trán với Sư đoàn 2 của địch như dự đoán.
· Hai tuần sau, chiến dịch SWIFT tiếp tục ở thung
lũng Quế Sơn, gây tổn thất cho 114 lính Mỹ vá 376 lính Bắc Việt.
· Tháng 10 1967, trận Ông Thành xảy
ra ác liệt ở quận Chơn Thành, Bình Dương.
· Tháng 11 1967, quân đội Giải Phóng khởi
chiến trận Đắk
Tô ở Kontum nhằm mục đích tiêu diệt cơ sở của quân đội Mỹ ở Tây nguyên.
· Ngày 4 tháng 12 1967, quân đội Việt
Nam Cộng Hoà và Hoa kỳ chạm trán quân đội Giải phóng ở đồng bằng sông Cửu Long,
gây thiệt mạng gần trọn một tiểu đoàn của đối phương.
Không nói với
ai, nhưng trong thâm tâm, chúng tôi đã biết cuộc chiến đang đến hồi gay cấn và
thầm nghĩ sẽ còn gây cấn hơn nữa. Hồi hương gần như đồng nghĩa với đi quân dịch,
rồi lao đầu vào chiến trường. Sống sót được thì còn đỡ; lỡ không sống sót được
thì có phải là quá uổng phí hay không?
Trong những
năm đầu của thập niên 1960, ngành khoa học không gian có nhiều hứa hẹn, khi con
người không còn muốn bị trái đất níu chân, muốn bay vào không gian, thám hiểm vũ
trụ. Người ta đua nhau nghiên cứu, thử nghiệm. Ở Hoa kỳ, từ sau khi Tổng Thống
John F. Kennedy kêu gọi tìm cách đưa phi hành gia lên thăm Chị Hằng trước khi
bước sang thập niên 1970, chánh phủ Hoa kỳ đã cung cấp rất nhiều tiền cho các cơ
quan nghiên cứu kỹ thuật không gian. Người anh em láng giềng, Canada, nhờ vậy mà
được thêm một số ngân quỹ và các trường đại học ở Canada cũng có thêm cơ hội để
cấp học bổng cho các chương trình nghiên cứu kỹ thuật không gian.
Những thành
quả được công bố lúc bấy giờ gồm có:
· 5 tháng 2, 1967: NASA phóng vệ tinh
Lunar Orbiter 3
để thám hiểm mặt trăng;
· 20 tháng 4, 1967: phi thuyền Surveyor 3 đáp xuống mặt trăng;
· 4 tháng 5, 1967: NASA phóng vệ tinh
Lunar Orbiter 4;
· 18 tháng 5, 1967: NASA công bố tên của
3 phi hành gia cho chuyến bay Apollo
7.
Vào thời điểm bấy giờ, kỹ thuật không gian được coi là sáng giá; nhưng Canada chưa có nhiều trường có chương trình nghiên cứu về kỹ thuật này. Đại học McGill có Dr. Gerald Bull, người nổi tiếng với súng thần công, lần đầu tiên có thể đưa viên đạn Marlet-2, nặng 180 kg, lên cao độ 180 km với vận tốc 2,100 m/s vào ngày 18 tháng 11, 1966. Theo tiểu sử của giáo sư, thì ông xuất thân từ UTIAS, một phân khoa của đại học Toronto. Đây là một điểm nóng mà nhiều người muốn tìm đến, trong đó có tôi.
Cuối hè năm
1967, tôi lần mò đến Toronto để tìm hiểu về UTIAS. Cảm nhận đầu tiên của tôi là
thán phục, nhưng thất vọng. Thán phục ở chỗ UTIAS nằm giữa cánh đồng hoang vắng,
yên tĩnh cho việc học và nghiên cứu, với những máy móc có vẻ rất phức tạp và hiện
đại. Thất vọng ở chỗ UTIAS cách xa trung tâm thành phố hơn 22 km, cách xa trạm
xe buýt cuối cùng hơn 2 km, cách xa khu dân cư gần nhất cũng hơn 2 km! Muốn học
ở đây, sinh viên cần phải có phương tiện di chuyển đến trường (hoặc đi nhờ xe với
các bạn cùng trường, hoặc có xe riêng) và cả hai cách chọn lựa đều không thuận
lợi (nhất là khó có hy vọng mua được chiếc xe, dù cũ và rẻ tiền). Nhưng tôi chưa
cần phải quyết định vội.
Bắt đầu năm
học 1967-1968, tôi dành nhiều thời giờ hơn để học những môn mà tôi nghĩ sẽ giúp
ích cho tôi sau này (khi tôi quyết định theo học ngành kỹ sư không gian), trong
đó có môn Fluid Dynamics và người giáo sư chuyên về môn này ở UTIAS là Dr.
I. I. Glass, một người nổi tiếng với Shock Tubes Research (cùng nguyên tắc
với súng thần công của Dr. Bull). Đầu năm 1968, tôi quyết định nộp đơn xin học ở
UTIAS, chấp nhận thử thách việc trường ở xa phố. Trước khi tốt nghiệp ở McGill,
tôi nhận được một bức thư của Dr. Glass chấp nhận cho tôi làm “đệ tử”. Nhưng vài
ngày trước khi khăn gói về Toronto, tôi nhận được một bức thư khác của Dr.
Glass báo tin ngân quỹ của chương trình nghiên cứu này đã bị cắt và đề nghị tôi
nên làm đệ tử của một người giáo sư trẻ (chỉ lớn hơn tôi 5 tuổi) Dr. P. C.
Hughes. Trước sự thay đổi đột ngột đó, tôi không còn sự chọn lựa nào khác hơn
là đành phải chấp nhận. Tất cả những sự chuẩn bị trước đó về môn học, về tương
lai thực
nghiệp chỉ một sớm một chiều đành bỏ trôi theo dòng nước! Những gì mình không
tiên liệu được, không lý giải được, mình chỉ còn có cách đổ thừa: định mệnh.
50 năm sau,
nghĩ lại và viết các dòng chữ này, tôi vẫn thật sự không hiểu tại sao chuyện đời
lại có nhiều việc xảy ra ngoài ý muốn. Nhưng giá mà chuyện lại xảy ra theo ý mình
thì chưa biết trong 50 năm nay tôi có được những may mắn mà tôi từng hưởng thụ
hay không. Có lẽ đó là kỳ diệu của cuộc sống mà con người nên chấp nhận, đừng
phân vân. Trong khi Canada đang nô nức đón mừng ngày lễ sinh nhật thứ 150, tôi
cũng nên cùng chia sẻ niềm vui đó với mọi người, và chỉ nên xem kỷ niệm của 50
năm về trước như là kỷ niệm của một thời.